Chắc hẳn, ai cũng từng nghe nhắc tới trợ cấp xã hội nhưng trợ cấp xã hội là gì, những đối tượng nào và mức hưởng trợ cấp xã hội là bao nhiêu thì không phải ai cũng biết. Xem bài viết sau để có câu trả lời.
Chắc hẳn, ai cũng từng nghe nhắc tới trợ cấp xã hội nhưng trợ cấp xã hội là gì, những đối tượng nào và mức hưởng trợ cấp xã hội là bao nhiêu thì không phải ai cũng biết. Xem bài viết sau để có câu trả lời.
Căn cứ theo Điều 5, Điều 6 Nghị định 20/2021/NĐ-CP, đối tượng được hưởng và mức hưởng trợ cấp xã hội hiện nay như sau:
Mức hưởng = mức chuẩn (360.000 đồng/tháng) * hệ số
Trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng thuộc một trong các trường hợp:
- Hệ số 2,5 đối với trường hợp dưới 04 tuổi - Hệ số 1,5 đối với trường hợp từ đủ 04 tuổi trở lên
Bị bỏ rơi chưa có người nhận làm con nuôi
Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật
Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội
Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc
Cả cha và mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật
Cả cha và mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội
Cả cha và mẹ đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc
Cha hoặc mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội
Cha hoặc mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc
Cha hoặc mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc
Người thuộc diện nêu tại stt 1 đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng mà đủ 16 tuổi nhưng đang học văn hóa, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất thì tiếp tục được hưởng chính sách trợ giúp xã hội cho đến khi kết thúc học, nhưng tối đa không quá 22 tuổi
Trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ nghèo
- Hệ số 2,5 đối với đối tượng dưới 04 tuổi
- Hệ số 2,0 đối với đối tượng từ đủ 04 - dưới 16 tuổi
Người thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo chưa có chồng/vợ; đã có chồng/vợ nhưng đã chết/mất tích theo quy định của pháp luật và đang nuôi con dưới 16 tuổi/đang nuôi con từ 16 - 22 tuổi và người con đó đang học văn hóa, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất (gọi chung là người đơn thân nghèo đang nuôi con)
Người cao tuổi thuộc một trong các trường hợp:
- Hệ số 1,5 đối với đối tượng quy định tại stt 5.1. từ đủ 60 tuổi đến 80 tuổi - Hệ số 2,0 đối với đối tượng quy định tại stt 5.2. từ đủ 80 tuổi trở lên - Hệ số 1,0 đối với đối tượng quy định tại stt 5.2. và 5.3. - Hệ số 3,0 đối với đối tượng quy định tại stt 5.4.
Người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng
Người cao tuổi từ đủ 75 - 80 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo không thuộc diện theo stt 5.1. đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn
Người từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc diện theo stt 5.1. mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng
Người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, không có điều kiện sống ở cộng đồng, đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở trợ giúp xã hội nhưng có người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc tại cộng đồng
Người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định pháp luật về người khuyết tật
- Hệ số 2,0 đối với người khuyết tật đặc biệt nặng
- Hệ số 2,5 đối với trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người cao tuổi là người khuyết tật đặc biệt nặng
- Hệ số 1,5 đối với người khuyết tật nặng
- Hệ số 2,0 đối với trẻ em khuyết tật nặng hoặc người cao tuổi là người khuyết tật nặng
Trẻ em dưới 3 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo không thuộc đối tượng theo stt 1, 3 và 6 đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn
Người nhiễm HIV/AIDS thuộc diện hộ nghèo không có nguồn thu nhập ổn định hàng tháng như tiền lương, tiền công, lương hưu, trợ cấp bảo bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội hàng tháng
Trên đây là cách hiểu trợ cấp xã hội là gì và các quy định liên quan đến đối tượng, mức hưởng trợ cấp xã hội. Nếu có thắc mắc, vui lòng gọi ngay đến tổng đài 19006192 để được tư vấn miễn phí, nhanh chóng.
Chi trả trợ cấp bảo hiểm xã hội tại Lạng Sơn. Ảnh: Ngọc Yến.
Hơn 10 triệu người cao tuổi không có lương hưu, trợ cấp xã hội
Theo Dữ liệu dân cư quốc gia, cả nước hiện có khoảng 16,1 triệu người cao tuổi (NCT), chiếm trên 16% dân số. Trong đó, khoảng 2,6 triệu người từ 80 tuổi (chiếm 15,9% tổng số NCT ), 10,3 triệu NCT sống ở nông thôn (chiếm 64%). Tuổi thọ bình quân chung là 73,6 tuổi (nam 71 tuổi, nữ 76,4 tuổi). Trong số này mới có khoảng 5,4 triệu NCT được hưởng chính sách về lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội (BHXH) hàng tháng, trợ cấp người có công, và trợ cấp xã hội. Như vậy, vẫn còn hàng triệu NCT nằm ngoài lưới an sinh và chưa được hưởng chính sách trợ cấp nào... Trong khi đó, công tác chăm sóc sức khỏe cho NCT còn những hạn chế. Khoảng 5% NCT từ 60 –80 tuổi không thuộc hộ nghèo, cận nghèo, không có lương hưu, trợ cấp xã hội và cũng không hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng chưa được cấp thẻ bảo hiểm y tế. Tại nhiều tỉnh, thành phố còn khó khăn trong việc bố trí nguồn kinh phí thực hiện khám chữa bệnh định kỳ tại cơ sở cho NCT. Đời sống của một bộ phận NCT còn khó khăn, đặc biệt NCT ở vùng sâu, vùng xa...
Hiện nay, vẫn còn khoảng 65% NCT ở Việt Nam chưa được hưởng chính sách trợ giúp xã hội của Nhà nước. Vì thế, họ phải sống dựa vào nguồn tiết kiệm (nếu có), hoặc dựa vào con cái, người thân, hoặc tiếp tục làm việc với mức thu nhập thấp.
Xuất phát từ thực tế trên, tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XV, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) có hiệu lực từ 1/7/2025, trong đó có nhiều điểm mới quan trọng liên quan đến chính sách an sinh xã hội, cụ thể là chế độ trợ cấp hưu trí xã hội. Theo đó, tại Điều 21 đối tượng và điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, quy định, công dân Việt Nam được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội khi có đủ các điều kiện, bao gồm: từ đủ 75 tuổi trở lên; không hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trừ trường hợp khác theo quy định của Chính phủ; có văn bản đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Công dân Việt Nam từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo và đáp ứng đủ các điều kiện (không hưởng lương hưu hoặc trợ cấp BHXH hàng tháng; có văn bản đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội) thì được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Theo Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội (LĐTBXH), từ năm 2002 đến nay, Chính phủ đã nhiều lần ban hành độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội, nâng mức trợ cấp xã hội đối với người cao tuổi, đó là: Nghị định số 30 ngày 26/3/2002 quy định người cao tuổi từ 90 tuổi trở lên được hưởng trợ cấp xã hội; Nghị định số 67 ngày 13/4/2007 quy định người từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội được hưởng trợ cấp xã hội; Nghị định số 06 ngày 14/1/2011 quy định giảm độ tuổi người cao tuổi (không có lương hưu, trợ cấp xã hội của Nhà nước) xuống còn từ đủ 80 tuổi.
Ngày 15/3/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số 20 quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội. Trong đó quy định mở rộng đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng là người cao tuổi từ 75 đến 80 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo đang sống tại các địa bàn xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn.
“Việc giảm độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội và mở rộng đối tượng hưởng chính sách này là một sự cố gắng lớn của Chính phủ trong bối cảnh khả năng bố trí ngân sách thực hiện còn nhiều khó khăn” - Bộ LĐTBXH khẳng định.
Trước đó, lý giải về đề xuất mức chuẩn trợ giúp xã hội áp dụng từ ngày 1/7/2024 là 500.000 đồng/tháng, Bộ LĐTBXH cho rằng, sẽ bảo đảm thực hiện lộ trình tăng mức chuẩn trợ giúp xã hội trong mối tương quan với các chính sách xã hội khác, sự công bằng giữa các nhóm đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, không để bỏ sót đối tượng; không ai bị bỏ lại phía sau. Đồng thời, phù hợp với mức bố trí ngân sách bảo đảm an sinh xã hội, đồng thời đáp ứng được mức sống tối thiểu cho đối tượng bảo trợ xã hội.